Vào cuối thời nguyên thuỷ, các bộ lạc
sống trên đất nước ta bước vào thời phát triển nghề luyện kim và nghề
nông trồng lúa nước, hình thành những nền văn hoá Đông Sơn, Sa Huỳnh và
Đồng Nai - Cần Giờ trên cả ba vùng của đất nước chúng ta.
1. Sự ra đời của thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước
Khoảng 3000 – 4000 năm cách ngày nay, các bộ lạc
sống rải rác trên đất nước ta, trên cơ sở trình độ phát triển cao của
kỹ thuật chế tác đá và làm gốm, đã bắt đầu biết sử dụng nguyên liệu
đồng và thuật luyện kim để chế tạo các công cụ. Nghề nông trồng lúa
nước được tiến hành ở nhiều thị tộc.
Trong các di tích văn hoá cách ngày nay khoảng 4000 năm, các
nhà khảo cổ tìm thấy một số hiện vật bằng đồng như dùi đồng, dây đồng,
các cục xỉ đồng, cục đồng.
Câu hỏi: - Việc tìm thấy các hiện vật bằng đồng nói lên điều gì?
2. Những nền văn hoá lớn cuối thời nguyên thuỷ
a) Từ Phùng Nguyên (văn hoá đồ đồng) đến văn hoá Đông Sơn (sơ kì sắt) ở miền Bắc
Đầu thiên niên kỉ thứ II trước Công nguyên, các bộ lạc
sống ở vùng lưu vực sông Hồng đã đưa kỹ thuật chế tác đá lên đỉnh cao,
đồng thời biết sử dụng hợp kim đồng và thuật luyện kim để chế tạo công
cụ. Đó là chủ nhân của văn hoá Phùng Nguyên, mở đàu cho sơ kì thời đại
đồng thau ở Việt Nam, chuyển dần lên văn hoá Đông Sơn.
Các di tích văn hoá Phùng Nguyên được phát hiện ở nhiều nơi
thuộc vùng Bắc Bộ như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây,
Hà Nội, Hải Phòng…
Các bộ lạc Phùng Nguyên là cư dân nông nghiệp trồng lúa, sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc.
Công cụ lao động chủ yếu vẫn bằng đá. Họ làm gồm bằng bàn xoay với
những đồ án trang trí hài hoà và biết sử dụng một số nguyên liệu khác
như tre, gỗ, nứa, xương để làm đồ dùng; biết xe chỉ, dệt vải và chăn nuôi gia sú như trâu, bò, lợn, gà, chó…
Đời sống tinh thần của cư dân Phùng Nguyên khá phong phú, biểu hiện một trình độ thẩm mĩ
khá cao. Các công cụ đá được mài nhẵn đẹp mắt. Đồ gốm được trang trí
hoa văn nhiều kiểu duyên dáng. Đồ trang sức có nhiều loại, nhiều kích
thước khác nhau bằng đá, sừng, xương, vỏ ốc, vỏ sò được mài, khoan tiện
tinh tế (vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai…). Tục chôn người chết nơi cư
trú, chôn theo công cụ lao động và các vật dụng khác cũng rất phổ biến
ở cư dân Phùng Nguyên.
Cùng với các bộ lạc Phùng Nguyên ở lưu vực sông Hồng, còn có các bộ lạc khác ở nhiều khu vực trên đất nước ta cũng đã tiến đến thời đại đồ đồng.
Các bộ lạc sống ở vùng châu thổ sông Mã (Thanh Hoá), chủ nhân của nền văn hoá Hoa Lộc và các bộ lạc
ở vùng lưu vực sông Lam là cư dân của một nền nông nghiệp dùng cuốc đá
phát triển. Nghề nông giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế. Các
nghề thủ công làm đá, gồm đạt đến trình độ khá cao, tương đồng với cư
dân Phùng Nguyên. Trong các di tích văn hoá Hoa Lộc, bên cạnh những
công cụ, hiện vật bằng đá, gốm (như rìu đá có vai, cuốc đá có chuôi để
tra cán, những đồ gốm có các hoa văn), còn có một số hiện vật bằng đồng
(như dùi đồng, dây đồng…)
b) Từ Bình Châu (văn hoá đồ đồng) đến Sa Huỳnh (sơ kì sắt) ở miền Trung
Cách ngày nay khoảng 3000 – 4000 năm, ở vùng Nam Trung Bộ, các bộ lạc
Bình Châu, Long Thạnh… chủ nhân của văn hoá tiền Sa Huỳnh cũng đã tiến
đến sơ kì thời đại đồng thau, biết đến kỹ thuật luyện kim.
Các di tích văn hoá Sa Huỳnh được phát hiện ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Sa Huỳnh là nông nghiệp
trồng lúa và các cây trồng khác. Ngoài ra, họ còn làm đồ gốm, dệt vải,
rèn sắt và làm đồ trang sức bằng đá, đồng, thuỷ tinh (chuỗi hạt, khuyên
tai…)
Cư dân văn hoá Sa Huỳnh thường thiêu xác chết, đổ tro xương vào các vò bằng đất nung đem chôn cùng với các đồ trang sức.
c) Từ Dốc Chùa (văn hoá đồ đồng) đến Cần Giờ (sơ kì sắt – văn hoá tiền Óc Eo) ở miền Nam
Ở các tỉnh miền Nam cũng đã phát hiện một số di tích văn hoá đồ
đồng như Dốc Chùa, Bình Đa, Cầu Sắt…, được gọi chung là văn hoá sông
Đồng Nai. Đây là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo.
Các di tích văn hoá sông Đồng Nai thuộc vùng Đông Nam Bộ được
phân bố ở các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Thành
phố Hồ Chí Minh… Các di tích văn hoá Óc Eo ở vùng Tây Nam Bộ thuộc các
tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ…
Cư dân văn hoá sông Đồng Nai làm nghề nông trồng lúa nước và
trồng các cây lương thực khác. Ngoài ra, họ còn làm nghề khai thác sản
vật rừng, săn bắn, làm nghề thủ công. Bên cạnh các công cụ bằng đá là
chủ yếu, còn có một số hiện vật bằng đồng, sắt, vàng, thuỷ tinh.
Cư dân văn hoá Cần Giờ còn đánh bắt hải sản và mở rộng quan hệ
giao lưu với bên ngoài, góp phần chuẩn bị cho sự xuất hiện văn hoá Óc
Eo của cảng thị cổ ở miền Nam.
Tóm lại, cách ngày nay khoảng 3000 – 4000 năm đã hình thành
những nền văn hoá lớn, phân bố ở các khu vực khác nhau, làm tiền đề cho
xã hội nguyên thuỷ chuyển biến sang giai đoạn cao hơn.
Câu hỏi: - Em có nhận xét gì về cuộc sống của cư dân Phùng Nguyên?
1. Em có nhận xét gì về thời gian ra đời thuật luyện kim ở các bộ lạc sống trên đất nước ta?
2. Sự ra đời của thuật luyện kim có ý nghĩa như thế nào đối với các bộ lạc sống trên đất nước ta cách đây khoảng 3000 – 4000 năm?
3. Hãy tóm tắt những nét chính về cuộc sống của các bộ lạc Phùng Nguyên, Sa Huỳnh, Đồng Nai theo các nội dung: địa bàn cư trú, công cụ lao động, hoạt động kinh tế.
sống trên đất nước ta bước vào thời phát triển nghề luyện kim và nghề
nông trồng lúa nước, hình thành những nền văn hoá Đông Sơn, Sa Huỳnh và
Đồng Nai - Cần Giờ trên cả ba vùng của đất nước chúng ta.
1. Sự ra đời của thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước
Khoảng 3000 – 4000 năm cách ngày nay, các bộ lạc
sống rải rác trên đất nước ta, trên cơ sở trình độ phát triển cao của
kỹ thuật chế tác đá và làm gốm, đã bắt đầu biết sử dụng nguyên liệu
đồng và thuật luyện kim để chế tạo các công cụ. Nghề nông trồng lúa
nước được tiến hành ở nhiều thị tộc.
Trong các di tích văn hoá cách ngày nay khoảng 4000 năm, các
nhà khảo cổ tìm thấy một số hiện vật bằng đồng như dùi đồng, dây đồng,
các cục xỉ đồng, cục đồng.
Câu hỏi: - Việc tìm thấy các hiện vật bằng đồng nói lên điều gì?
2. Những nền văn hoá lớn cuối thời nguyên thuỷ
a) Từ Phùng Nguyên (văn hoá đồ đồng) đến văn hoá Đông Sơn (sơ kì sắt) ở miền Bắc
Đầu thiên niên kỉ thứ II trước Công nguyên, các bộ lạc
sống ở vùng lưu vực sông Hồng đã đưa kỹ thuật chế tác đá lên đỉnh cao,
đồng thời biết sử dụng hợp kim đồng và thuật luyện kim để chế tạo công
cụ. Đó là chủ nhân của văn hoá Phùng Nguyên, mở đàu cho sơ kì thời đại
đồng thau ở Việt Nam, chuyển dần lên văn hoá Đông Sơn.
Các di tích văn hoá Phùng Nguyên được phát hiện ở nhiều nơi
thuộc vùng Bắc Bộ như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây,
Hà Nội, Hải Phòng…
Các bộ lạc Phùng Nguyên là cư dân nông nghiệp trồng lúa, sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc.
Công cụ lao động chủ yếu vẫn bằng đá. Họ làm gồm bằng bàn xoay với
những đồ án trang trí hài hoà và biết sử dụng một số nguyên liệu khác
như tre, gỗ, nứa, xương để làm đồ dùng; biết xe chỉ, dệt vải và chăn nuôi gia sú như trâu, bò, lợn, gà, chó…
Đời sống tinh thần của cư dân Phùng Nguyên khá phong phú, biểu hiện một trình độ thẩm mĩ
khá cao. Các công cụ đá được mài nhẵn đẹp mắt. Đồ gốm được trang trí
hoa văn nhiều kiểu duyên dáng. Đồ trang sức có nhiều loại, nhiều kích
thước khác nhau bằng đá, sừng, xương, vỏ ốc, vỏ sò được mài, khoan tiện
tinh tế (vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai…). Tục chôn người chết nơi cư
trú, chôn theo công cụ lao động và các vật dụng khác cũng rất phổ biến
ở cư dân Phùng Nguyên.
Cùng với các bộ lạc Phùng Nguyên ở lưu vực sông Hồng, còn có các bộ lạc khác ở nhiều khu vực trên đất nước ta cũng đã tiến đến thời đại đồ đồng.
Các bộ lạc sống ở vùng châu thổ sông Mã (Thanh Hoá), chủ nhân của nền văn hoá Hoa Lộc và các bộ lạc
ở vùng lưu vực sông Lam là cư dân của một nền nông nghiệp dùng cuốc đá
phát triển. Nghề nông giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế. Các
nghề thủ công làm đá, gồm đạt đến trình độ khá cao, tương đồng với cư
dân Phùng Nguyên. Trong các di tích văn hoá Hoa Lộc, bên cạnh những
công cụ, hiện vật bằng đá, gốm (như rìu đá có vai, cuốc đá có chuôi để
tra cán, những đồ gốm có các hoa văn), còn có một số hiện vật bằng đồng
(như dùi đồng, dây đồng…)
b) Từ Bình Châu (văn hoá đồ đồng) đến Sa Huỳnh (sơ kì sắt) ở miền Trung
Cách ngày nay khoảng 3000 – 4000 năm, ở vùng Nam Trung Bộ, các bộ lạc
Bình Châu, Long Thạnh… chủ nhân của văn hoá tiền Sa Huỳnh cũng đã tiến
đến sơ kì thời đại đồng thau, biết đến kỹ thuật luyện kim.
Các di tích văn hoá Sa Huỳnh được phát hiện ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Sa Huỳnh là nông nghiệp
trồng lúa và các cây trồng khác. Ngoài ra, họ còn làm đồ gốm, dệt vải,
rèn sắt và làm đồ trang sức bằng đá, đồng, thuỷ tinh (chuỗi hạt, khuyên
tai…)
Cư dân văn hoá Sa Huỳnh thường thiêu xác chết, đổ tro xương vào các vò bằng đất nung đem chôn cùng với các đồ trang sức.
c) Từ Dốc Chùa (văn hoá đồ đồng) đến Cần Giờ (sơ kì sắt – văn hoá tiền Óc Eo) ở miền Nam
Ở các tỉnh miền Nam cũng đã phát hiện một số di tích văn hoá đồ
đồng như Dốc Chùa, Bình Đa, Cầu Sắt…, được gọi chung là văn hoá sông
Đồng Nai. Đây là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo.
Các di tích văn hoá sông Đồng Nai thuộc vùng Đông Nam Bộ được
phân bố ở các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Thành
phố Hồ Chí Minh… Các di tích văn hoá Óc Eo ở vùng Tây Nam Bộ thuộc các
tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ…
Cư dân văn hoá sông Đồng Nai làm nghề nông trồng lúa nước và
trồng các cây lương thực khác. Ngoài ra, họ còn làm nghề khai thác sản
vật rừng, săn bắn, làm nghề thủ công. Bên cạnh các công cụ bằng đá là
chủ yếu, còn có một số hiện vật bằng đồng, sắt, vàng, thuỷ tinh.
Cư dân văn hoá Cần Giờ còn đánh bắt hải sản và mở rộng quan hệ
giao lưu với bên ngoài, góp phần chuẩn bị cho sự xuất hiện văn hoá Óc
Eo của cảng thị cổ ở miền Nam.
Tóm lại, cách ngày nay khoảng 3000 – 4000 năm đã hình thành
những nền văn hoá lớn, phân bố ở các khu vực khác nhau, làm tiền đề cho
xã hội nguyên thuỷ chuyển biến sang giai đoạn cao hơn.
Câu hỏi: - Em có nhận xét gì về cuộc sống của cư dân Phùng Nguyên?
1. Em có nhận xét gì về thời gian ra đời thuật luyện kim ở các bộ lạc sống trên đất nước ta?
2. Sự ra đời của thuật luyện kim có ý nghĩa như thế nào đối với các bộ lạc sống trên đất nước ta cách đây khoảng 3000 – 4000 năm?
3. Hãy tóm tắt những nét chính về cuộc sống của các bộ lạc Phùng Nguyên, Sa Huỳnh, Đồng Nai theo các nội dung: địa bàn cư trú, công cụ lao động, hoạt động kinh tế.