Chắc các bạn vẫn còn nhớ chuyện triều Lê Sơ sau
thời vua Lê Thánh Tông thì dần dà suy yếu dẫn đến nội loạn, đến Lê Cung
Hoàng (Lê Xuân) thì mất nuớc vào tay Mạc Ðăng Dung. Dung là nguời khôn
ngoan, mưu lược, giữ tới chức Thái phó, từng buớc đoạt quyền bính để
thoán ngôi.Năm 1527, sau khi bức tử Lê Cung Hoàng khi ấy mới 21 tuổi,
Dung lập ra triều Mạc.
Triều Mạc thực ra cũng chẳng đến nỗi nào. Tương đối thịnh trị! Mạc Ðăng
Dung theo lối nhà Trần,sớm thoái vị để nhường ngôi cho con là Mạc Ðăng
Doanh, còn mình làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn quán xuyến những công
việc trọng đại của quốc gia. Cứ 3 năm mở một kỳ thi hội và thi đình. Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm -Trạng Trình của chúng ta đã đỗ Trạng Nguyên và rất
đuợc vị nể duới triều Mạc. Ân tình ấy,Bạch Vân cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm
sau này có lẽ đã báo đáp bằng cách mách nuớc cho Mạc Hậu Hợp.
“Cao Bằng tuy tiểu, khả dung sổ thế” (Cao Bằng nhỏ nhưng cũng nương
thân được vài đời).Ðến thời Mạc Ðăng Doanh, ở khu vực rừng núi hiểm trở
Thanh Hóa giáp biên giới Việt Lào, một lực lượng mới đang ầm thầm nổi
lên mà sau này sẽ kết liễu họ Mạc. Nguyễn Kim, cựu thần trung thành của
nhà Lê, tích cực mộ quân, quy tụ anh hào các nơi dể khởi phục tiên
triều. Ðến năm 1533 thì Kim lập Lê Duy Ninh, hạt giống còn rơi rớt của
nhà Lê lên ngôi, Ninh lấy hiệu Lê Trang Tông, mở đầu thời kỳ Lê Trung
Hưng (các bạn còn nhớ chuyện Chúa Chổm không?) Nguyễn Kim có nguời con
rể tên là Trịnh Kiểm và con trai tên là Nguyễn Hoàng. Lực luợng nhà Lê
Trung Hung ngày càng lớn mạnh. Năm 1543 Nguyễn Kim chiếm Tây Ðô (Thanh
Hóa), cho đóng đô ở đấy, hình thành nên cục diện Nam-Bắc triều. Cung mở
khoa thi đàng hoàng như ai, năm 1554 khoa thi đầu tiên tuyển mộ đuợc
khá nhiều nhân tài phò tá. Nhiều văn nhân võ tướng trong thiên hạ bỏ
Mạc mà phù Lê. Năm 1545, Nguyễn Kim không may bị hàng tuớng của nhà Mạc
đánh thuốc độc chết, con rể Trịnh Kiểm lên nắm quyền, bắt đầu thời kỳ
“vua Lê-chúa Trịnh”. Năm 1577 Mạc Kính Ðiển đem quân tiễu phạt, không
ngờ thua to phải nhảy xuống sông mới thoát. Trịnh Kiểm lại khôn khéo
cho quân băng rừng vuợt núi, vòng ra sau lưng Kinh thành mà đánh vào
hậu phương nhà Mạc như Tuyên Quang, Sơn Tây,…, tạo thành thế gọng kìm.
Mạc ngày càng lụn bại, thêm nỗi đến đời vua Mạc Hậu Hợp thì ông này sa
vào gái gú, ruợu chè suốt ngày nên lòng nguời chán nản. Ðến 1592, thuỷ
quân Lê Trung Hưng đánh tổng lực vào Hải Dương, áp sát Kinh thành, truy
đuổi bắt giết gần hết tôn thất nhà Mạc.Những nguời sống sót chạy lên
Cao Bằng. Nhà Mạc-Cao Bằng còn kéo đuợc thêm 5 đời nữa, đến 1677 (đời
vua Mạc Kính Vu) mới chịu dứt bóng. Tuởng từ nay sẽ chỉ còn một nhà Lê,
song đất nuớc ta vẫn chưa hết cảnh phân tranh…
Sau khi lên nắm quyền, Trịnh Kiểm bắt đầu ngấm ngầm hãm hại con cháu
Nguyễn Kim để độc tôn quyền lực. Nguyễn Ương, con truởng Nguyễn Kim là
nạn nhân đầu tiên. Trước tình cảnh ấy, để tìm cách thoát thân, năm
1558, Nguyễn Hoàng mới vận động chị mình là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho
Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, khi ấy còn là miền viễn biên hoang
dã, rừng rú. Kiểm vờ nghe vợ nhưng hắn đoan chắc rằng Nguyễn Hoàng sẽ
gục truớc vô vàn gian khổ, giặc giã trong ấy và rốt cục phải bỏ mạng
tại nơi khỉ ho cò gáy, rừng sâu nước độc... Nhưng hắn ko ngờ rằng, hắn
đã mở cho Nguyễn Hoàng một lối thoát và còn là một cơ hội tốt để sau
này trả thù... Lệnh ban ra, cơ hội sống sót đã mở rộng truớc mắt, dù
đang giữa ngày đông tháng giá, Nguyễn Hoàng tức khắc lên thuyền vuợt
biển vào Nam. Cùng đi là khá nhiều thân thích, họ mạc (chủ yếu có gốc ở
huyện Tống Sơn, Thanh Hóa) cùng rất nhiều quân thần trung thành với
triều Lê, ước lên đến nghìn người. Ðến Quảng Trị, Nguyễn Hoàng cho đóng
thuyền vào cảng Cửa Việt, lập dinh thự ở Ái Tử thuộc huyện Ðang Xương,
Quảng Trị. Tiếc là không có cái đài kỷ niệm nào ở nơi này, bởi Ái Tử đã
ghi dấu một cột mốc rất lớn trong hành trình Nam tiến của dân tộc Việt.
Thế kỷ XVII đáng phải đuợc coi là một trong những thế kỷ đặc sắc nhất
trong lịch sử dân tộc. Ðặc sắc, bởi cha ông chúng ta - những nguời có
khi suốt đời không ra khỏi luỹ tre làng, lên đến huyện có khi đã coi là
sự kiện lớn trong đời, đứng truớc biển nhưng chua bao giờ có nổi đội
thuyền vuợt biển xa... - mà nay lại ở trong vai trò của những nhà thám
hiểm (bất đắc dĩ), đi vào một vùng đất lạ đầy bất trắc và hiểm nguy.
Có ba vấn đề sống chết đối với Nguyễn Hoàng lúc này là khẩn trương xây
dựng lực luợng quân sự,thu hút thêm càng nhiều càng tốt dân định cư và
mở rộng lãnh thổ. Có thể nói ông cũng như một vài đờichúa Nguyễn về sau
đã giải quyết cả ba vấn đề này một cách xuất sắc.Không có quân đội vững
mạnh thì Nguyễn Hoàng không thể đối phó với Trịnh Kiểm cũng như những
sắc dân Chămpa địa phương đang tức giận vì bị mất đất. Về mặt số luợng
quân, rõ là Ðàng Trong không thể ganh đua với Ðàng Ngoài có dân số vuợt
trội. Vậy là chỉ còn một con đường xây dựng lực lượng tinh nhuệ, thiện
chiến và phải chuyên nghiệp, tận dụng những khí tài quân sự hiện đại và
hữu hiệu nhất để gia tăng thương vong cho phía đối phương. Cho nên
không có gì lạ khi các chúa Nguyễn rất chú trọng vào pháo binh và tượng
cơ.
Đọc được một số tài liệu cho biết khoảng giữa thế kỷ XVII, chúa Nguyễn
đã có trong tay hơn 200 trọng pháo, chủ yếu là nhờ các thương gia và
giáo sĩ Tây phương mua về từ Macao. Nửa sau thế kỷ XVIII, số trọng pháo
đã lên tới 1200 khẩu, áp đảo hỏa lực của Ðàng Ngoài. Lính Ðàng Trong
cũng nổi tiếng là những tay súng thiện xạ, bách phát bách trúng. Tượng
cơ thì vô tư bởi voi ở Ðàng Trong rất sẵn.Báo cáo của một thương gia Hà
Lan nói là năm 1642, đội tượng cơ của chúa Nguyễn đã có khoảng 600 thớt
voi.Pháo binh và voi rất phát huy tác dụng khi giao chiến trên địa hình
tương đối bằng phẳng. Với hai bửu bối này, lực luợng quân sự Ðàng Trong
đã đẩy lùi những đợt tấn công của quân Trịnh có quân số gấp đôi, thậm
chí gấp bốn.
Nói thêm với các bạn một chút về chế độ binh dịch của Ðàng Trong. Tất
cả thanh niên trai tráng từ16 tuổi trở lên đã có nghĩa vụ tòng quân,
đến 60 tuổi mới được về nhà (chẳng biết còn sống đuợc mà về không?).
Khác với chúa Trịnh gọi dân là “bách tính” (trăm họ), chúa Nguyễn gọi
dân là “quân dân”. Bởi quân với dân thì cũng gần như là một. Tuy vậy,
để đảm bảo dân số vẫn sinh sôi đều đặn, chúa cho phép binh lính mang vợ
vào ở cùng doanh trại…
Có thể các bạn sẽ thắc mắc rằng các chúa Nguyễn lấy đâu ra tiền để
trong một thời gian ngắn xây dựng một lực luợng quân sự tinh nhuệ như
thế? Phi thương bất phú. Chủ yếu là nhờ thương nghiệp cả thôi. Nhờ mở
rộng cửa buôn bán với nuớc ngoài, quan hệ tốt với thương nhân và giáo
sĩ Tây phương,Nhật Bản, Trung Hoa…, chưa kể Ðàng Trong khi ấy lại đóng
cả vai trò điểm trung chuyển hàng hóa trong khu vực, nên những khoản
thuế vào túi chúa Nguyễn thật nhiều không tả xiết Thu hút dân đến định
cư cũng nằm trong chiến luợc tạo nguồn nuôi và bổ sung quân đội, đồng
thời tạo sức ép lấn thêm đất của Chămpa và các tộc nguời thiểu số khác.
Chúa Nguyễn có những chính sách rất cởi mở dành cho dân tứ xứ, trong dó
có một bộ phận lớn Hoa kiều “phục Minh phản Thanh” (như Mạc Cửu) đến
khai hoang. Dân khai hoang được sở hữu đất của họ. Không phải đóng thuế
trong ba năm đầu tiên, thậm chí một số vùng được miễn thuế hoàn toàn.
Ngoài ra, nạn đói và giặc giã khủng khiếp ở Ðàng Ngoài thời Nam-Bắc
triều cung góp phần thúc đẩy một bộ phận lớn nông dân (đặc biệt ở hai
tỉnh Thanh,Nghệ) rời bỏ quê hương chạy vào Ðàng Trong. Ðàng Trong khi
ấy có sức quyến rũ như một miền đất hứa, nơi nguời nông dân không phải
è cổ gánh sưu cao thuế nặng (nhất là thời kỳ đầu), nơi họ đuợc tự do
khai khẩn và canh tác trên những thửa ruộng thẳng cánh cò bay…
Về chính sách mở rộng lãnh thổ, phải nói chúa Nguyễn đã gặp đuợc cả
thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Thiên thời vì khi ấy Chămpa đã rệu rã
lắm, hơn nữa Chămpa không phải là một khối thống nhất mà là liên minh
của nhiều bộ tộc, dễ bị “chia để trị”. Nguời Chămpa còn chủ động dời
thủ phủ của họ lùi dần về phía Nam, ảnh huởng và quyền lực của chính
quyền trung ương lên vùng giáp ranh vì thế mà cũng nhạt đi. Ðịa lợi vì
địa hình suốt một dải miền Trung không nối liền mà bị cắt khúc bởi các
con sông đâm ra biển, thuận cho chiến thuật “cắt từng miếng bánh”. Nhân
hòa vì bản tính mềm mỏng, khôn khéo và dễ thích ứng của dân Việt ta.
Cho nên suốt mấy thế kỷ “mở rộng cương vực”, không xảy ra đánh nhau lớn
giữa dân bản địa và dân di cư, kể cũng là một điều thần kỳ.
Trong tâm thức của nguời Việt (đặc biệt là nguời Bắc), có hai điều
thiêng liêng và rất nhạy cảm. Thứ nhất là truyền thống chống ngoại xâm
và đi kèm với nó đôi khi là tình cảm thù ghét ngoại bang. Thứ nữa là ý
thức coi trọng sự đoàn kết và thống nhất, mà cụ thể với nguời nông dân
là đoàn kết và thống nhất trong họ Mạc và làng xóm.
Thế mà hành trình Nam tiến đã phá vỡ mối liên kết cộng đồng trong làng
xóm và tai hại thay, gắn liền với cục diện phân chia đất nuớc. Nguyễn
Ánh, hậu duệ các chúa Nguyễn, thì liên kết với ngoại bang để giành lại
quyền lực, liên kết hết với quân Xiêm lại đến quân Pháp.Phạm vào hai
điều thiêng ấy nên không tránh khỏi khuynh hướng coi nhẹ lịch sử Ðàng
Trong trong chính sử…
thời vua Lê Thánh Tông thì dần dà suy yếu dẫn đến nội loạn, đến Lê Cung
Hoàng (Lê Xuân) thì mất nuớc vào tay Mạc Ðăng Dung. Dung là nguời khôn
ngoan, mưu lược, giữ tới chức Thái phó, từng buớc đoạt quyền bính để
thoán ngôi.Năm 1527, sau khi bức tử Lê Cung Hoàng khi ấy mới 21 tuổi,
Dung lập ra triều Mạc.
Triều Mạc thực ra cũng chẳng đến nỗi nào. Tương đối thịnh trị! Mạc Ðăng
Dung theo lối nhà Trần,sớm thoái vị để nhường ngôi cho con là Mạc Ðăng
Doanh, còn mình làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn quán xuyến những công
việc trọng đại của quốc gia. Cứ 3 năm mở một kỳ thi hội và thi đình. Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm -Trạng Trình của chúng ta đã đỗ Trạng Nguyên và rất
đuợc vị nể duới triều Mạc. Ân tình ấy,Bạch Vân cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm
sau này có lẽ đã báo đáp bằng cách mách nuớc cho Mạc Hậu Hợp.
“Cao Bằng tuy tiểu, khả dung sổ thế” (Cao Bằng nhỏ nhưng cũng nương
thân được vài đời).Ðến thời Mạc Ðăng Doanh, ở khu vực rừng núi hiểm trở
Thanh Hóa giáp biên giới Việt Lào, một lực lượng mới đang ầm thầm nổi
lên mà sau này sẽ kết liễu họ Mạc. Nguyễn Kim, cựu thần trung thành của
nhà Lê, tích cực mộ quân, quy tụ anh hào các nơi dể khởi phục tiên
triều. Ðến năm 1533 thì Kim lập Lê Duy Ninh, hạt giống còn rơi rớt của
nhà Lê lên ngôi, Ninh lấy hiệu Lê Trang Tông, mở đầu thời kỳ Lê Trung
Hưng (các bạn còn nhớ chuyện Chúa Chổm không?) Nguyễn Kim có nguời con
rể tên là Trịnh Kiểm và con trai tên là Nguyễn Hoàng. Lực luợng nhà Lê
Trung Hung ngày càng lớn mạnh. Năm 1543 Nguyễn Kim chiếm Tây Ðô (Thanh
Hóa), cho đóng đô ở đấy, hình thành nên cục diện Nam-Bắc triều. Cung mở
khoa thi đàng hoàng như ai, năm 1554 khoa thi đầu tiên tuyển mộ đuợc
khá nhiều nhân tài phò tá. Nhiều văn nhân võ tướng trong thiên hạ bỏ
Mạc mà phù Lê. Năm 1545, Nguyễn Kim không may bị hàng tuớng của nhà Mạc
đánh thuốc độc chết, con rể Trịnh Kiểm lên nắm quyền, bắt đầu thời kỳ
“vua Lê-chúa Trịnh”. Năm 1577 Mạc Kính Ðiển đem quân tiễu phạt, không
ngờ thua to phải nhảy xuống sông mới thoát. Trịnh Kiểm lại khôn khéo
cho quân băng rừng vuợt núi, vòng ra sau lưng Kinh thành mà đánh vào
hậu phương nhà Mạc như Tuyên Quang, Sơn Tây,…, tạo thành thế gọng kìm.
Mạc ngày càng lụn bại, thêm nỗi đến đời vua Mạc Hậu Hợp thì ông này sa
vào gái gú, ruợu chè suốt ngày nên lòng nguời chán nản. Ðến 1592, thuỷ
quân Lê Trung Hưng đánh tổng lực vào Hải Dương, áp sát Kinh thành, truy
đuổi bắt giết gần hết tôn thất nhà Mạc.Những nguời sống sót chạy lên
Cao Bằng. Nhà Mạc-Cao Bằng còn kéo đuợc thêm 5 đời nữa, đến 1677 (đời
vua Mạc Kính Vu) mới chịu dứt bóng. Tuởng từ nay sẽ chỉ còn một nhà Lê,
song đất nuớc ta vẫn chưa hết cảnh phân tranh…
Sau khi lên nắm quyền, Trịnh Kiểm bắt đầu ngấm ngầm hãm hại con cháu
Nguyễn Kim để độc tôn quyền lực. Nguyễn Ương, con truởng Nguyễn Kim là
nạn nhân đầu tiên. Trước tình cảnh ấy, để tìm cách thoát thân, năm
1558, Nguyễn Hoàng mới vận động chị mình là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho
Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, khi ấy còn là miền viễn biên hoang
dã, rừng rú. Kiểm vờ nghe vợ nhưng hắn đoan chắc rằng Nguyễn Hoàng sẽ
gục truớc vô vàn gian khổ, giặc giã trong ấy và rốt cục phải bỏ mạng
tại nơi khỉ ho cò gáy, rừng sâu nước độc... Nhưng hắn ko ngờ rằng, hắn
đã mở cho Nguyễn Hoàng một lối thoát và còn là một cơ hội tốt để sau
này trả thù... Lệnh ban ra, cơ hội sống sót đã mở rộng truớc mắt, dù
đang giữa ngày đông tháng giá, Nguyễn Hoàng tức khắc lên thuyền vuợt
biển vào Nam. Cùng đi là khá nhiều thân thích, họ mạc (chủ yếu có gốc ở
huyện Tống Sơn, Thanh Hóa) cùng rất nhiều quân thần trung thành với
triều Lê, ước lên đến nghìn người. Ðến Quảng Trị, Nguyễn Hoàng cho đóng
thuyền vào cảng Cửa Việt, lập dinh thự ở Ái Tử thuộc huyện Ðang Xương,
Quảng Trị. Tiếc là không có cái đài kỷ niệm nào ở nơi này, bởi Ái Tử đã
ghi dấu một cột mốc rất lớn trong hành trình Nam tiến của dân tộc Việt.
Thế kỷ XVII đáng phải đuợc coi là một trong những thế kỷ đặc sắc nhất
trong lịch sử dân tộc. Ðặc sắc, bởi cha ông chúng ta - những nguời có
khi suốt đời không ra khỏi luỹ tre làng, lên đến huyện có khi đã coi là
sự kiện lớn trong đời, đứng truớc biển nhưng chua bao giờ có nổi đội
thuyền vuợt biển xa... - mà nay lại ở trong vai trò của những nhà thám
hiểm (bất đắc dĩ), đi vào một vùng đất lạ đầy bất trắc và hiểm nguy.
Có ba vấn đề sống chết đối với Nguyễn Hoàng lúc này là khẩn trương xây
dựng lực luợng quân sự,thu hút thêm càng nhiều càng tốt dân định cư và
mở rộng lãnh thổ. Có thể nói ông cũng như một vài đờichúa Nguyễn về sau
đã giải quyết cả ba vấn đề này một cách xuất sắc.Không có quân đội vững
mạnh thì Nguyễn Hoàng không thể đối phó với Trịnh Kiểm cũng như những
sắc dân Chămpa địa phương đang tức giận vì bị mất đất. Về mặt số luợng
quân, rõ là Ðàng Trong không thể ganh đua với Ðàng Ngoài có dân số vuợt
trội. Vậy là chỉ còn một con đường xây dựng lực lượng tinh nhuệ, thiện
chiến và phải chuyên nghiệp, tận dụng những khí tài quân sự hiện đại và
hữu hiệu nhất để gia tăng thương vong cho phía đối phương. Cho nên
không có gì lạ khi các chúa Nguyễn rất chú trọng vào pháo binh và tượng
cơ.
Đọc được một số tài liệu cho biết khoảng giữa thế kỷ XVII, chúa Nguyễn
đã có trong tay hơn 200 trọng pháo, chủ yếu là nhờ các thương gia và
giáo sĩ Tây phương mua về từ Macao. Nửa sau thế kỷ XVIII, số trọng pháo
đã lên tới 1200 khẩu, áp đảo hỏa lực của Ðàng Ngoài. Lính Ðàng Trong
cũng nổi tiếng là những tay súng thiện xạ, bách phát bách trúng. Tượng
cơ thì vô tư bởi voi ở Ðàng Trong rất sẵn.Báo cáo của một thương gia Hà
Lan nói là năm 1642, đội tượng cơ của chúa Nguyễn đã có khoảng 600 thớt
voi.Pháo binh và voi rất phát huy tác dụng khi giao chiến trên địa hình
tương đối bằng phẳng. Với hai bửu bối này, lực luợng quân sự Ðàng Trong
đã đẩy lùi những đợt tấn công của quân Trịnh có quân số gấp đôi, thậm
chí gấp bốn.
Nói thêm với các bạn một chút về chế độ binh dịch của Ðàng Trong. Tất
cả thanh niên trai tráng từ16 tuổi trở lên đã có nghĩa vụ tòng quân,
đến 60 tuổi mới được về nhà (chẳng biết còn sống đuợc mà về không?).
Khác với chúa Trịnh gọi dân là “bách tính” (trăm họ), chúa Nguyễn gọi
dân là “quân dân”. Bởi quân với dân thì cũng gần như là một. Tuy vậy,
để đảm bảo dân số vẫn sinh sôi đều đặn, chúa cho phép binh lính mang vợ
vào ở cùng doanh trại…
Có thể các bạn sẽ thắc mắc rằng các chúa Nguyễn lấy đâu ra tiền để
trong một thời gian ngắn xây dựng một lực luợng quân sự tinh nhuệ như
thế? Phi thương bất phú. Chủ yếu là nhờ thương nghiệp cả thôi. Nhờ mở
rộng cửa buôn bán với nuớc ngoài, quan hệ tốt với thương nhân và giáo
sĩ Tây phương,Nhật Bản, Trung Hoa…, chưa kể Ðàng Trong khi ấy lại đóng
cả vai trò điểm trung chuyển hàng hóa trong khu vực, nên những khoản
thuế vào túi chúa Nguyễn thật nhiều không tả xiết Thu hút dân đến định
cư cũng nằm trong chiến luợc tạo nguồn nuôi và bổ sung quân đội, đồng
thời tạo sức ép lấn thêm đất của Chămpa và các tộc nguời thiểu số khác.
Chúa Nguyễn có những chính sách rất cởi mở dành cho dân tứ xứ, trong dó
có một bộ phận lớn Hoa kiều “phục Minh phản Thanh” (như Mạc Cửu) đến
khai hoang. Dân khai hoang được sở hữu đất của họ. Không phải đóng thuế
trong ba năm đầu tiên, thậm chí một số vùng được miễn thuế hoàn toàn.
Ngoài ra, nạn đói và giặc giã khủng khiếp ở Ðàng Ngoài thời Nam-Bắc
triều cung góp phần thúc đẩy một bộ phận lớn nông dân (đặc biệt ở hai
tỉnh Thanh,Nghệ) rời bỏ quê hương chạy vào Ðàng Trong. Ðàng Trong khi
ấy có sức quyến rũ như một miền đất hứa, nơi nguời nông dân không phải
è cổ gánh sưu cao thuế nặng (nhất là thời kỳ đầu), nơi họ đuợc tự do
khai khẩn và canh tác trên những thửa ruộng thẳng cánh cò bay…
Về chính sách mở rộng lãnh thổ, phải nói chúa Nguyễn đã gặp đuợc cả
thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Thiên thời vì khi ấy Chămpa đã rệu rã
lắm, hơn nữa Chămpa không phải là một khối thống nhất mà là liên minh
của nhiều bộ tộc, dễ bị “chia để trị”. Nguời Chămpa còn chủ động dời
thủ phủ của họ lùi dần về phía Nam, ảnh huởng và quyền lực của chính
quyền trung ương lên vùng giáp ranh vì thế mà cũng nhạt đi. Ðịa lợi vì
địa hình suốt một dải miền Trung không nối liền mà bị cắt khúc bởi các
con sông đâm ra biển, thuận cho chiến thuật “cắt từng miếng bánh”. Nhân
hòa vì bản tính mềm mỏng, khôn khéo và dễ thích ứng của dân Việt ta.
Cho nên suốt mấy thế kỷ “mở rộng cương vực”, không xảy ra đánh nhau lớn
giữa dân bản địa và dân di cư, kể cũng là một điều thần kỳ.
Trong tâm thức của nguời Việt (đặc biệt là nguời Bắc), có hai điều
thiêng liêng và rất nhạy cảm. Thứ nhất là truyền thống chống ngoại xâm
và đi kèm với nó đôi khi là tình cảm thù ghét ngoại bang. Thứ nữa là ý
thức coi trọng sự đoàn kết và thống nhất, mà cụ thể với nguời nông dân
là đoàn kết và thống nhất trong họ Mạc và làng xóm.
Thế mà hành trình Nam tiến đã phá vỡ mối liên kết cộng đồng trong làng
xóm và tai hại thay, gắn liền với cục diện phân chia đất nuớc. Nguyễn
Ánh, hậu duệ các chúa Nguyễn, thì liên kết với ngoại bang để giành lại
quyền lực, liên kết hết với quân Xiêm lại đến quân Pháp.Phạm vào hai
điều thiêng ấy nên không tránh khỏi khuynh hướng coi nhẹ lịch sử Ðàng
Trong trong chính sử…